Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc, là đường lối chiến lược của Đảng, là cội nguồn sức mạnh, giá trị cốt lõi và động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam, có ý nghĩa quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong mọi thời kỳ. đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam có bài viết: "Giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy truyền thống yêu nước, vai trò nòng cốt chính trị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, quyết tâm xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc".
Bác Hồ với đồng bào các dân tộc Việt Nam _Tranh: Tư liệu
Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta, là cội nguồn sức mạnh để dân tộc ta mãi mãi trường tồn và phát triển, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, là đường lối chiến lược, có ý nghĩa sống còn của cách mạng Việt Nam.
Kế thừa và phát huy truyền thống đoàn kết của dân tộc, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc, đoàn kết dân tộc và tập hợp lực lượng cách mạng, ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, quy tụ, tổ chức lực lượng quần chúng thành một khối thống nhất có tổ chức, tạo thành sức mạnh vĩ đại trong công cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc, tự do, thống nhất đất nước trước đây cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay - đó là Mặt trận Dân tộc thống nhất, nay là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Với các hình thức tổ chức và tên gọi khác nhau phù hợp với tình hình và nhiệm vụ cách mạng của mỗi thời kỳ, vai trò và sứ mệnh của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam luôn luôn là nòng cốt đoàn kết, là ngôi nhà chung của toàn dân tộc, là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu của các giai tầng xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, người Việt Nam ở nước ngoài... Đó là sứ mệnh chính trị cao cả, nặng nề, khó khăn, phức tạp, nhưng rất vẻ vang của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Đất nước ta đang chuyển sang thời kỳ phát triển mới với mục tiêu phấn đấu trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào giữa thế kỷ XXI, đòi hỏi phải tiếp tục phát huy tiềm năng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trở thành nguồn sức mạnh to lớn, hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hành nền dân chủ xã hội chủ nghĩa... ở một tầm cao mới, cùng với hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng trong bối cảnh thế giới biến động phức tạp, khó lường, cơ hội và thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới cho sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc và công tác mặt trận. Chúng ta phải hiểu như thế nào cho đúng về nội hàm đại đoàn kết toàn dân tộc? Phải làm gì để giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy truyền thống yêu nước, sự lãnh đạo của Đảng, vai trò nòng cốt chính trị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, khơi dậy mạnh mẽ mọi nguồn lực, tiềm năng, sức sáng tạo của nhân dân, đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc?
Lịch sử dân tộc ta đã chứng minh, trước những bước ngoặt lớn của lịch sử với mục tiêu lớn lao của đất nước, nếu biết khơi dậy tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, phát huy sức mạnh vĩ đại của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, thì con thuyền cách mạng Việt Nam sẽ vượt qua mọi thác ghềnh, phong ba bão táp, để cập bến bờ vinh quang.
Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc Việt Nam, được hun đúc, bồi đắp qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước
Trong suốt chiều dài lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, tinh thần đoàn kết bắt nguồn từ tình yêu quê hương, xứ sở, nơi “chôn nhau, cắt rốn”, lòng yêu nước thương nòi của mỗi người con đất Việt đã trở thành giá trị văn hóa của dân tộc, thành di sản tinh thần được ông cha ta trao truyền lại cho muôn đời sau. Truyền thống đó luôn luôn được giữ gìn, bồi đắp và phát triển, đúc kết thành những bài học kinh nghiệm như: “Một cây làm chẳng nên non/Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”; hay “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/Người trong một nước phải thương nhau cùng”; “Bắc Nam là con một nhà/Là gà một mẹ, là hoa một cành/Nguyện cùng biển thẳm non xanh/Thương nhau nuôi chí đấu tranh cho bền”... Trong lịch sử dân tộc, thời nào đất nước phú cường, cơ nghiệp vững chắc thì đều do triều đình biết dựa vào dân, đoàn kết muôn dân, có sự đồng lòng ủng hộ của toàn dân. Ngược lại, khi đất nước phân tranh, lòng dân ly tán, oán thán, thì vận nước suy tàn. Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn chỉ ra căn nguyên sâu xa làm nên thắng lợi của vua tôi nhà Trần trong ba lần kháng chiến chống Mông - Nguyên xâm lược ở thế kỷ XIII là: “Vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức”(1).
Đại đoàn kết toàn dân tộc từ truyền thống trở thành triết lý chính trị thân dân của ông cha ta với quan điểm “Quốc dĩ dân vi bản”, tức là nước phải lấy dân làm gốc (Nguyễn Bỉnh Khiêm). Triết lý thân dân có nhiều yếu tố tiến bộ, là cội nguồn tạo thành sức mạnh giúp dân tộc ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, trường tồn trước những biến thiên của lịch sử, để “Sơn hà thiên cổ điện kim âu” (Non sông nghìn thuở vững âu vàng) như khẳng định của vua Trần Nhân Tông.
Thời đại Hồ Chí Minh là thời đại huy hoàng bậc nhất về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Người đã sáng lập Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, là linh hồn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc(2). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”(3)...
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết toàn dân tộc là một nội dung cốt lõi, làm nên dấu ấn quan trọng của Người trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, được Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa, vận dụng thành công trong quá trình lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc thể hiện rõ quan điểm, lập trường, thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, được cụ thể hóa thành những luận điểm, nguyên tắc, phương pháp tập hợp, quy tụ và phát huy sức mạnh của các tầng lớp nhân dân, tổ chức lực lượng cách mạng, đoàn kết quốc tế nhằm phát huy cao nhất sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Người chỉ rõ, sức mạnh lớn nhất là ở nhân dân: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”(4), đoàn kết được nhân dân sẽ tạo ra sức mạnh to lớn nhất. Người khẳng định: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác. Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”(5). Người căn dặn, đại đoàn kết toàn dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc.
Kế thừa và phát triển tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta trong mọi giai đoạn cách mạng luôn luôn khẳng định: Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu, là đường lối chiến lược của Đảng; là cội nguồn sức mạnh, là giá trị cốt lõi và động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam, có ý nghĩa quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong mọi thời kỳ. Nền tảng vững chắc của đại đoàn kết toàn dân tộc là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo; là mối quan hệ “máu thịt” giữa Đảng và nhân dân, là niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ ta; là sự đoàn kết giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội, giữa cộng đồng các dân tộc Việt Nam, giữa đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa những người theo các tôn giáo khác nhau; giữa người Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài; là đoàn kết giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân yêu chuộng hòa bình, tiến bộ trên thế giới. Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc làm điểm tương đồng.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với đồng bào dân tộc thôn Đăk Mút, xã Đăk Mar, huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum _Ảnh: TTXVN
Bước phát triển tư duy lý luận và sự lãnh đạo của Đảng về đại đoàn kết và xây dựng, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Kế thừa, phát huy bản sắc, cội nguồn văn hóa và truyền thống của dân tộc trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã không ngừng đổi mới, phát triển tư duy về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Sự đổi mới tư duy lý luận giúp chúng ta nhìn nhận, đánh giá đúng vai trò của vấn đề đoàn kết dân tộc và tập hợp lực lượng cách mạng, đường lối chiến lược có ý nghĩa sống còn, bảo đảm cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Đến Đại hội VI - Đại hội mở đầu công cuộc đổi mới toàn diện đất nước (tháng 12-1986) - Đảng đã có nhiều quan điểm, chủ trương đổi mới, trong đó có vấn đề đại đoàn kết toàn dân như: “trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”(8). Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó nhấn mạnh hai bài học kinh nghiệm về đoàn kết dân tộc: một là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; hai là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đến Đại hội VIII (tháng 6-1996), Đảng ta một lần nữa khẳng định vai trò của nhân dân: “Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Cũng do nhân dân hưởng ứng đường lối đổi mới, dũng cảm phấn đấu, vượt qua biết bao khó khăn, thử thách mà công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu hôm nay”(9). Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) nhấn mạnh: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo”(10). Đến Đại hội X (tháng 4-2006), Đảng ta chỉ rõ nhiệm vụ phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đưa vấn đề phát huy sức mạnh toàn dân tộc là một trong bốn thành tố của chủ đề Đại hội, coi đó là “nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(11). Đến Đại hội XI (tháng 1-2011), Đảng ta khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc”(12). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(13). Đại hội XII (tháng 1-2016) nhấn mạnh yêu cầu trong giai đoạn cách mạng hiện nay phải “tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”(14). Đại hội XIII của Đảng (tháng 1-2021) đã bổ sung phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; khẳng định tiếp tục “phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân”(15). Đại hội cũng khẳng định “vai trò chủ thể, vị trí trung tâm” của nhân dân trong toàn bộ quá trình xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc; sự lãnh đạo của Đảng là ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Như vậy, từ chỗ chỉ nói đoàn kết, rồi nói đại đoàn kết toàn dân, rồi phát triển lên thành đại đoàn kết toàn dân tộc là những cột mốc đánh dấu sự đổi mới và phát triển quan trọng về tư duy nhận thức và lý luận đối với chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng ta, theo chiều hướng ngày càng mở rộng về biên độ, từ thấp đến cao, từ hẹp đến rộng, từ còn những “xơ cứng” đến ngày càng cởi mở hơn. Có những thời điểm, chúng ta giải quyết còn chưa thật thấu đáo một số vấn đề, làm ảnh hưởng đến việc xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đến khả năng tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân tộc phù hợp với cơ cấu xã hội, cơ cấu giai cấp, tương quan lực lượng và đặc điểm của nước ta qua các thời kỳ. Tuy nhiên, với tinh thần cầu thị, nghiêm túc nhìn thẳng vào những hạn chế, đồng thời “thật thà” và “chân thành” như căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xử lý các mối quan hệ của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng ta đã kịp thời sửa chữa những thiếu sót, nhận diện và giải quyết những vấn đề mới phát sinh, nhân lên những mô hình tốt, cách làm hay, nhờ đó, khối đại đoàn kết toàn dân tộc càng thêm mở rộng và đi vào chiều sâu.
Những kết quả nổi bật trong việc xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng trong thời gian qua
Qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tập trung thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội, từng bước thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo giữa các vùng, miền; quan tâm phát triển toàn diện khu vực miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội...
Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được củng cố, mở rộng và phát huy; đồng thuận xã hội được tăng cường, niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa ngày càng được củng cố và nhân lên; các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động được đẩy mạnh, qua đó động viên nhân dân phát huy tinh thần năng động, sáng tạo, huy động được những nguồn lực, tiềm năng to lớn trong nhân dân vào phục vụ nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tăng cường đoàn kết quốc tế, tạo không gian quan hệ mở rộng, tranh thủ được sự ủng hộ, hợp tác, giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, trên cơ sở triển khai đồng bộ và toàn diện đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân, phát triển quan hệ tốt đẹp với nhiều chính đảng, chính phủ, quốc hội các nước, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trên thế giới. Công tác đối ngoại nhân dân góp phần quan trọng nâng cao vị thế, uy tín của Đảng và đất nước, sự coi trọng của các nước đối với Việt Nam; tranh thủ nhiều nguồn lực từ bên ngoài cho sự phát triển của đất nước, trong đó có nguồn lực quan trọng của người Việt Nam ở nước ngoài; tích cực bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, tham gia đấu tranh với những âm mưu, hành động chống phá của các thế lực thù địch trên các lĩnh vực liên quan đến chủ quyền, dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền...
Đặc biệt, trong bối cảnh đại dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, Đảng ta và cả hệ thống chính trị cùng toàn thể đồng bào, cả người dân trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài với ý chí, quyết tâm cao, phát huy cao độ tinh thần đoàn kết đã vững vàng vượt qua những khó khăn, thách thức to lớn. Trong gian khó, tinh thần yêu nước, nghĩa đồng bào, truyền thống “thương người như thể thương thân” của dân tộc ta và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát huy và nâng lên một tầm cao mới.
Khối đại đoàn kết toàn dân tộc được xây dựng vững chắc trên lập trường của giai cấp công nhân, lấy liên minh công nhân - nông dân - trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Trên nền tảng của liên minh công nhân - nông dân - trí thức, Đảng ta đã không ngừng mở rộng sự đoàn kết đối với mọi giai cấp, tầng lớp xã hội. Các giai tầng trong xã hội (giai cấp công nhân, nông dân, đội ngũ trí thức, thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh, doanh nhân, người cao tuổi, đồng bào các dân tộc, đồng bào tín đồ các tôn giáo, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài) phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng. Trong bối cảnh cơ cấu xã hội, cơ cấu các giai tầng có nhiều thay đổi, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp nhân dân luôn được quan tâm, bảo đảm hài hòa. Chất lượng của nền hành chính nhà nước đã được cải thiện theo phương châm “phục vụ dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, tinh gọn, bảo đảm công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình”; hiệu quả phục vụ người dân và doanh nghiệp có nhiều tiến bộ, mức độ hài lòng của người dân và doanh nghiệp được nâng lên.
Dân chủ xã hội ngày càng mở rộng, dân trí ngày càng cao. Dân chủ được thực hành ngày càng thực chất và rộng rãi; từng bước phát huy vai trò của nhân dân trong quyết định các vấn đề lớn và hệ trọng của đất nước; quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân được tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm; chú trọng nâng cao dân chủ đại diện, mở rộng dân chủ trực tiếp, nhất là dân chủ ở cơ sở được thể chế hóa từ Pháp lệnh thành Luật thực hiện dân chủ ở cơ sở. Hoạt động đối thoại với nhân dân, giải quyết các khiếu nại, tố cáo được quan tâm và đề cao; người đứng đầu cấp ủy, chính quyền tăng cường tiếp xúc, đối thoại với nhân dân, lắng nghe, xem xét những ý kiến, kiến nghị, bức xúc của nhân dân. Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” được thực hiện ngày càng rộng rãi.
Đoàn kết, thống nhất trong Đảng được giữ vững, tăng cường, làm nòng cốt lãnh đạo và là hạt nhân, cơ sở vững chắc để xây dựng đoàn kết của hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh được đặc biệt coi trọng, kiên trì thực hiện, đạt được những kết quả quan trọng. Kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được triển khai quyết liệt, đồng bộ; kiên quyết, kiên trì xử lý nghiêm tổ chức, đảng viên vi phạm, nhiều vụ án tham nhũng được xét xử kịp thời, nghiêm minh, song cũng rất nhân văn, qua đó tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Phát huy vai trò của nhân dân trong giám sát, tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Đặc biệt, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng tiếp tục phát huy vai trò là nòng cốt chính trị trong tổ chức vận động, tập hợp, quy tụ các tầng lớp nhân dân, tạo sự thống nhất và đồng thuận trong xã hội; có nhiều đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động, triển khai sâu rộng và nâng cao chất lượng các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động; sâu sát với cơ sở; đa dạng hóa các hình thức vận động nhân dân, lấy lợi ích hợp pháp, chính đáng của các thành viên, đoàn viên, hội viên và nhân dân làm trọng tâm, góp phần giải quyết nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh trong quá trình phát triển. Mặt trận và các tổ chức thành viên thực hiện ngày càng tốt hơn vai trò đại diện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân; chủ động tham gia giám sát và phản biện xã hội; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; làm tốt công tác dân vận và cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, đoàn kết nhân dân Việt Nam với nhân dân thế giới.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta cũng cần thẳng thắn nhìn nhận những mặt còn hạn chế, có giải pháp khắc phục nhằm phát huy hơn nữa truyền thống yêu nước và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó là: Việc cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ở một số lĩnh vực, địa bàn kết quả chưa cao; một số cơ chế, chính sách chưa thực sự phù hợp với thực tiễn, chậm sửa đổi, bổ sung. Một số cấp ủy, chính quyền còn thiếu sâu sát trong việc nắm bắt tình hình nhân dân và giải quyết những vấn đề bức xúc nảy sinh tại cơ sở; huy động, phát huy đầy đủ, hiệu quả các nguồn lực trong nhân dân. Đời sống của một bộ phận người dân còn khó khăn; chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa các vùng, miền, khu vực chưa được thu hẹp. Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” chậm được cụ thể hóa; quyền làm chủ của nhân dân, nhất là ở một số cơ sở chưa được phát huy đầy đủ; mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân có lúc, có nơi chưa thực sự chặt chẽ.
Việc đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng còn có mặt chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình; chưa phát huy hết vai trò tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân. Hoạt động giám sát, phản biện xã hội có lúc còn chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu do thực tiễn đặt ra; hiệu quả của một số cuộc vận động, phong trào thi đua chưa cao...
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gặp mặt các đại diện tiêu biểu về dự Hội nghị biểu dương chủ tịch Mặt trận Tổ quốc cấp xã và trưởng ban công tác mặt trận tiêu biểu toàn quốc _Ảnh: TTXVN
Bối cảnh mới và những vấn đề đặt ra đối với việc xây dựng, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Trong thời gian tới, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, nhanh chóng, khó lường hơn so với dự báo; thời cơ, thuận lợi đan xen với khó khăn, thách thức. Xu hướng đa cực, đa trung tâm, cạnh tranh, mâu thuẫn, bất đồng, xung đột tại một số khu vực tác động đến cục diện quốc tế, trong đó có Việt Nam.
Ở trong nước, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, cũng xuất hiện nhiều vấn đề mới, chưa có tiền lệ. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ đã tác động đến các giai cấp, tầng lớp, cũng như mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp với nhau; gia tăng chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa các khu vực, vùng, miền. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch tiếp tục lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền,... để tăng cường chống phá nhằm chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân. Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân phải chung sức, đồng lòng, có quyết tâm cao, nỗ lực lớn, tranh thủ mọi thời cơ, huy động mọi nguồn lực, phát huy sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại, phấn đấu xây dựng đất nước cường thịnh, phồn vinh, nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đồng thời tham gia tích cực vào các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc.
Việc huy động sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh mới hiện nay đặt ra yêu cầu phải đổi mới tư duy, phương thức vận động, quy tụ, tập hợp các lực lượng, cần thiết phải có những nhân tố, mục tiêu mới phù hợp với sự phát triển của đất nước, cũng như của thời đại nhằm đoàn kết bền chặt, vững chắc, thực chất và hiệu quả hơn.
Thực tiễn đã chứng minh, để phù hợp với những yêu cầu, nhiệm vụ trung tâm khác nhau trong mỗi giai đoạn cách mạng, đòi hỏi phải xác định điểm tương đồng, “mẫu số chung” - cơ sở quan trọng và vững chắc để khơi dậy, phát huy và quy tụ lòng người, tập hợp được đông đảo các giai cấp, tầng lớp, các tôn giáo, dân tộc, huy động mọi lực lượng trong nhân dân. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã nắm bắt được đúng và trúng những nhiệm vụ trung tâm và yêu cầu đặt ra với cách mạng, kịp thời lãnh đạo Mặt trận đổi mới nội dung, phương thức hoạt động nhằm phát huy năng lực thu hút, tập hợp, đoàn kết các lực lượng xã hội, do vậy Mặt trận luôn luôn khẳng định được vai trò quan trọng của mình.
Từ khi Đảng được thành lập, lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nhờ xác định cơ sở quan trọng và vững chắc của đại đoàn kết toàn dân tộc chính là đánh đuổi ngoại xâm, chúng ta đã giành lại độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ hòa bình. Đảng ta đã linh hoạt và nhạy bén thành lập và tổ chức các hình thức mặt trận với khẩu hiệu đấu tranh, tên gọi, chủ trương... phù hợp để vừa đoàn kết mọi lực lượng tiến bộ, vừa phân hóa, cô lập kẻ thù. Đó là: Hội Phản đế đồng minh (tháng 11-1930), Hội Phản đế liên minh (tháng 3-1935), Mặt trận Thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương (tháng 10-1936), Mặt trận Dân chủ Đông Dương (tháng 3-1938), Mặt trận Dân tộc Thống nhất phản đế Đông Dương (tháng 11-1939), Việt Nam độc lập Đồng minh (gọi tắt là Việt Minh, tháng 5-1941), Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Hội Liên Việt, tháng 5-1946), Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Mặt trận Liên Việt, tháng 3-1951), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (tháng 5-1955), Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (tháng 12-1960), Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam (tháng 4-1968) và từ năm 1977 đến nay là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, vận dụng và quán triệt sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đã tập hợp được đông đảo nhân sĩ, trí thức, các tầng lớp nhân dân không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, thành phần, chính kiến, trong đó có nhiều trí thức, nhà khoa học tài năng người Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài, sẵn sàng về nước tham gia kháng chiến, kiến quốc, đóng góp công sức, trí tuệ cho đất nước. Không chỉ là đoàn kết trong nước, chúng ta còn giương cao ngọn cờ chính nghĩa, làm tốt công tác đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân, do vậy đã nhận được sự đoàn kết, ủng hộ, giúp đỡ rộng lớn, mạnh mẽ của quốc tế đối với cuộc kh&aacut
-
Cần chấm dứt nhận định thiếu khách quan về bảo đảm quyền con người ở Việt Nam
-
Giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình - chính sách quốc phòng đúng đắn của Việt Nam
-
Lạm quyền tự do ngôn luận cũng là một biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị
-
Phát huy tính tiên phong, gương mẫu của đảng viên
-
Xung kích bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng
-
Cảnh giác với chiêu trò mạo danh “phản biện xã hội” nhằm chống phá cách mạng Việt Nam
-
Nhận diện âm mưu lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá đất nước
-
Lợi ích của quốc gia, dân tộc luôn được đặt lên trên hết
-
″Góp gió thành bão″ từ những việc thiết thực, cụ thể
-
Không thể phủ nhận việc đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh